(CDC) – 10 năm qua, ngành nông nghiệp đã có sự chuyển biến rõ rệt, đạt tốc độ tăng trưởng cao hơn bình quân chung cả nước. Sản xuất tiếp tục chuyển dịch theo đúng định hướng; các vùng sản xuất chính tiếp tục ổn định và phát huy lợi thế cạnh tranh của từng vùng, từng khu vực, góp phần tạo nên lượng sản phẩm hàng hóa lớn đáp ứng yêu cầu của thị trường tiêu thụ và hướng đến xuất khẩu. Đó là thành tựu đạt được từ việc triển khai đồng bộ, hiệu quả các giải pháp thực hiện chương trình tái cơ cấu ngành nông nghiệp.
(CDC) – 10 năm qua, ngành nông nghiệp đã có sự chuyển biến rõ rệt, đạt tốc độ tăng trưởng cao hơn bình quân chung cả nước. Sản xuất tiếp tục chuyển dịch theo đúng định hướng; các vùng sản xuất chính tiếp tục ổn định và phát huy lợi thế cạnh tranh của từng vùng, từng khu vực, góp phần tạo nên lượng sản phẩm hàng hóa lớn đáp ứng yêu cầu của thị trường tiêu thụ và hướng đến xuất khẩu. Đó là thành tựu đạt được từ việc triển khai đồng bộ, hiệu quả các giải pháp thực hiện chương trình tái cơ cấu ngành nông nghiệp.
Sầu riêng giống mới năng suất và chất lượng cao ở Bảo Lâm
GIẢM DIỆN TÍCH KÉM HIỆU QUẢ CÒN 18,6%
Trong 13 năm qua, toàn tỉnh đã chuyển đổi khoảng 122.500 ha cây trồng các loại, trong đó, thực hiện tái canh cải tạo 69.000 ha cà phê già cỗi, năng suất thấp, góp phần đưa năng suất cà phê từ 22 tạ/ha năm 2008 lên 32 tạ/ha năm 2020. Tỷ lệ giống mới trong sản xuất từ đó không ngừng được nâng lên, nhiều mô hình luân canh, xen canh khá thành công, cho hiệu quả kinh tế cao. Cơ cấu cây trồng tiếp tục được bố trí, sắp xếp hợp lý tại các địa phương để nâng cao hiệu quả canh tác. Toàn tỉnh đã hình thành những vùng chuyên canh tập trung về cây công nghiệp, cây ăn quả, rau, hoa với quy mô lớn, đáp ứng nhu cầu nguyên liệu cho công nghiệp chế biến và thị trường tiêu thụ, qua đó góp phần giảm diện tích sản xuất kém hiệu quả dưới 50 triệu đồng/ha còn khoảng 55.831 ha, chiếm 18, 6% tổng diện tích đất canh tác. Tính đến nay, có trên 60% diện tích cà phê được sử dụng các giống ghép, hoặc giống thực sinh từ cây đầu dòng có chất lượng tốt, 13% diện tích cà phê được trồng xen canh các cây che bóng, chắn gió; 60% diện tích chè trồng các giống chè cành cao sản và chè Đài Loan; 85% diện tích dâu lai; 17% diện tích điều đã được tái canh, cải tạo, đồng thời có tới 70% cây ăn quả chất lượng cao trên diện tích vườn cây ăn quả toàn tỉnh. Cây rau, hoa cũng ngày càng đa dạng hóa về chủng loại với chất lượng cao, đáp ứng nhu cầu thị trường.
Bên cạnh đó, trình độ canh tác có sự phát triển vượt bậc, trở thành trung tâm nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao của cả nước với trên 61.159 ha đạt các tiêu chí về nông nghiệp công nghệ cao; giá trị sản xuất bình quân gấp 2,3 lần mức bình quân chung toàn tỉnh và có hiệu quả kinh tế cao hơn nhiều so với canh tác truyền thống. Dự án Phát triển nông nghiệp theo hướng tiếp cận đa ngành và cải thiện môi trường đầu tư được tập trung đầu tư, thực hiện với nhiều tiểu dự án, bước đầu có tác động tích cực đến phát triển toàn ngành.
CHĂN NUÔI, LÂM NGHIỆP TIẾP TỤC PHÁT TRIỂN
So với trước năm 2008, tuy gặp nhiều khó khăn do dịch bệnh, giá cả không ổn định, làm cho tốc độ tăng trưởng và cơ cấu ngành chăn nuôi không đạt mục tiêu đề ra nhưng với việc tập trung thực hiện các giải pháp phòng, chống dịch, cơ cấu lại tổng đàn và phương thức chăn nuôi, ngành chăn nuôi của tỉnh tiếp tục phát triển theo định hướng của ngành, cơ cấu đàn phát triển tương đối hợp lý, chất lượng giống nâng cao...; tốc độ tăng đàn đạt khoảng 4%/năm. Cơ cấu giá trị sản xuất nội bộ ngành chăn nuôi: trâu, bò chiếm 16,11%, lợn chiếm 36,02%, gia cầm chiếm 35,77% và chăn nuôi động vật khác chiếm 12,10%. Tỷ lệ gia súc, gia cầm chăn nuôi trang trại chiếm khoảng 54%, chăn nuôi nông hộ chiếm 46%. Trong đó, cơ cấu vật nuôi chính gồm: Lợn, bò thịt, bò sữa, chăn nuôi gia cầm và nuôi trồng thủy sản; đàn bò sữa phát triển mạnh với sản lượng gấp 15 lần và ngành trồng dâu nuôi tằm khôi phục với năng suất, sản lượng tăng gấp 3 lần năm so với năm 2008.
Trong lĩnh vực sản xuất lâm nghiệp, giai đoạn 2009 - 2020, ngành Lâm nghiệp phát triển theo hướng giảm và ngừng khai thác rừng tự nhiên, tăng cường các hoạt động trồng rừng, chăm sóc, khoanh nuôi tái sinh, quản lý, bảo vệ và thực hiện chính sách chi trả dịch vụ môi trường rừng. Độ che phủ rừng giai đoạn này đạt 55%. Nhằm nâng cao giá trị tài nguyên rừng, tỉnh cũng tập trung chỉ đạo đẩy mạnh các hoạt động trồng rừng, đưa khoa học công nghệ vào trồng, chăm sóc rừng, tỉa thưa rừng trồng, khai thác rừng trồng gắn với chế biến tinh tại các nhà máy trong tỉnh để tăng năng suất, giá trị, chất lượng lâm sản, phát triển rừng ổn định, từ đó nâng cao giá trị kinh tế rừng. Các công ty lâm nghiệp được sắp xếp và đổi mới mô hình hoạt động nhằm nâng cao hiệu quả quản lý, bảo vệ rừng và phát huy tính chủ động, sáng tạo trong quá trình thực hiện các hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ.
Các hoạt động trồng rừng, phát triển rừng bền vững được thực hiện tốt, công tác quản lý, bảo vệ rừng có nhiều chuyển biến rõ nét. Từ năm 2008 đến nay toàn tỉnh trồng được trên 47.000 ha rừng trồng tập trung các loại; 4,5 triệu cây phân tán, qua đó góp phần giữ vững và tăng dần độ che phủ rừng. Hiện Lâm Đồng có 538.741,5 ha rừng, trong đó diện tích rừng tự nhiên 454.867,58 ha, diện tích rừng trồng đã thành rừng 81.296,52 ha, rừng trồng chưa thành rừng 2.577,4 ha. Giá trị môi trường rừng được khai thác có hiệu quả tạo nguồn lực to lớn đầu tư cho công tác quản lý, bảo vệ rừng. Hiện có 450.997 ha rừng được giao khoán quản lý, bảo vệ , chiếm tỷ lệ 83,7% diện tích rừng hiện có, tạo việc làm và thu nhập ổn định cho khoảng 10.000 hộ gia đình sống gần rừng, trong đó có gần 12.000 hộ đồng bào dân tộc thiểu số; bên cạnh đó, toàn tỉnh có 63.343 ha rừng sản xuất được xác nhận quản lý rừng bền vững.
Có thể khẳng định rằng, với việc triển khai đồng bộ các giải pháp, sản xuất nông, lâm nghiệp trên địa bàn tỉnh 10 năm qua đã có sự chuyển dịch mạnh theo hướng hiện đại, chất lượng nông sản nâng lên rõ rệt. Đó chính là hiệu quả từ việc triển khai các giải pháp thực hiện tái cơ cấu ngành nông nghiệp theo đúng hướng.
Nguồn: Báo Lâm Đồng